30.
Lý
Nhất nhìn về phía đoàn thuyền chiến của Bắc triều đang tới gần, lúc ẩn lúc hiện
sau những lớp sóng, sau những ráng mây, đoàn thuyền nhiều hơn tính toán của Lý Nhất.
Đoàn thuyền lúc dàn hàng ngang, lúc xếp thành hàng dọc, như bàn tay bẩn của bọn
thảo khấu, nhăm nhe, chờ chực để có thể vồ tới, chộp tới xé nát đảo cát vàng.
Lý
Nhất nhìn khắp lượt đảo Nước Lửa, nhìn khắp lượt những gương mặt hừng hực sẵn
sàng tham chiến của anh em mình, rồi chàng nâng cái vỏ ốc lên miệng, thổi một
hồi dài.
Đó
là mệnh lệnh chuẩn bị tham chiến.
Đó
là mệnh lệnh của trận binh đao sắp xảy ra.
Đó
là lời thúc giục các chiến binh nắm cung nỏ, gươm giáo chuẩn bị xả thân vì
cương giới.
Tiếng
kêu vang vọng, trầm âm của vỏ ốc như tiếng nước non.
Nắng
chiều chìm dần vào biển cả.
Trận
binh đao sắp xảy đến.
X X
X
Đêm.
Hứa
Văn kéo Khắc Ngôn lên mũi thuyền:
-Giờ
thì nhà ngươi phải vào đảo trước xem động tĩnh. Ta không tin là Lý Nhất dễ dàng
cho ta vào chiếm đảo như thế. Người Việt mưu kế truyền đời, không thể chủ quan.
Khắc
Ngôn nói:
-Ngài
quá lo xa. Cho dù Lý Nhất kéo hết quân binh tới đảo thì cũng làm gì được ta?
Ngài xem, quân binh của ta đông như kiến, chỉ cần Ngài xua quân lên đảo, chẳng
làm gì cũng đập nát được người nước Việt
Hứa
Văn nhếch mép:
-Ta
biết thế, nhưng cẩn thận vẫn hơn. Ta đã giấu Bệ hạ, xin một lấy hai, nên trên
các chiếc thuyền, quân binh tính cả mấy trăm người. Quân Lý Nhất đông lắm cũng
chỉ non trăm người, chống sao được ta. Nhưng ý ta không muốn tốn một mũi tên
nào, ta đã xua quân lên tức là bóp nát chúng, giết sạch, bắt sống Lý Nhất, vậy
là xong việc. Quân binh cứ thế lấy nước lửa chất lên thuyền. Hảo a?
Khắc
Ngôn chắp tay:
-Vậy
thần sẽ vào trước.
Hứa
Văn hỏi:
-Còn
bao xa?
Khắc
Ngôn nói:
-Ngài
nhìn đi. Dù là đêm tối, cũng đã thấy đảo mờ mờ trong sương, thế là gần rồi, có
thể bơi vào được. Ngài thúc thuyền nhanh chóng dàn hàng ngang áp sát. Khi nhìn
thấy thần đốt lửa trên đảo thì cứ thế mà vào.
Hứa
Văn gật đầu ưng ý.
Khắc
Ngôn chốc lát đã mất hút dưới làn nước.
X X
X
Lý
Nhất và anh em đã nhìn thấy bóng những con thuyền lớn lù lù áp sát vào chân
đảo.
Bất
ngờ, Lý Nhất nhìn thấy có tiếng động lạ ở bờ sóng rồi một bóng đen trườn từ
nước lên, trườn nhanh tới căn lều của Tiểu Tiểu và Lý Bật. Lý Nhất ra hiệu cho
hai thủy binh bí mật bám theo.
Một
lát, Lý Nhất nhận được tin báo, có quân của Hứa Văn lẻn vào gặp Tiểu Tiểu. Lý Nhất
tới lều. Lý Bật liến thoắng:
-Bẩm
ngài. Đây là Khắc Ngôn, tay chân của Tiểu Tiểu đang từ thuyền lẻn vào bắt mối.
Khắc
Ngôn liếc mắt nhìn thanh kiếm sắc trên tay Lý Nhất, lại nhìn Tiểu Tiểu.
Tiểu
Tiểu nhìn Lý Nhất, nói:
-Bẩm
ngài, thần đã nguyện nghe lời ngài, xin ngài cứ sai bảo.
Lý
Nhất hỏi Khắc Ngôn:
-Chiến
thuyền Bắc triều của ngươi có bao nhiêu chiếc? Bao nhiêu lính?
Khắc
Ngôn líu ríu thưa:
-Dạ
12 chiến thuyền, hơn 300 lính.
Lý
Nhất hỏi:
-Hứa
Văn yêu cầu ngươi làm gì khi lẻn vào đảo trước?
Khắc
Ngôn hạ giọng:
-Dạ
bẩm… Chỉ cần thấy đảo đốt lửa là quân binh ào ào xông vào.
Lý
Nhất nhìn Tiểu Tiểu và Lý Bật:
-Các
ngươi theo ta hay theo Hứa Văn?
Cả
Tiểu Tiểu và Lý Bật run rét mà cùng nói:
-Dạ
bẩm… Không theo ngài thì theo ai, xin ngài cứ sai bảo.
Lý
Nhất nói:
-Ta
vốn không muốn gây chuyện binh đao. Bệ hạ ta muốn giữ hòa hiếu hai nước. Nay ta
sai các ngươi ra thuyền, nói với Hứa Văn, đảo này là của nước Việt, không gây
chiến, không tranh giành, về đi.
Tiểu
Tiểu, Lý Bật, Khắc Ngôn nhìn nhau.
Lý
Nhất gằn giọng:
-Đi
ngay. Ta cho thuyền nhỏ đưa ra. Đi đi.
Hai
thủy binh lấy con thuyền nhỏ cho Tiểu Tiểu, Lý Bật, Khắc Ngôn lên thuyền.
Lý
Đạt ngạc nhiên nhìn Lý Nhất:
-Đại
ca. Quân ta đã bày binh bố trận, phần thắng nắm chắc trong tay, cơ hội giết
giặc đã tới, sao đại ca lại có ý đình chiến?
Lý
Nhất nói:
-Ta
không đình chiến mà là hủy chiến. Nếu thuyết phục được chúng quay về, không xảy
ra binh đao vẫn là tốt. Đảo này của nước Việt, ai khiêu khích, ai xâm hại, giết
không tha. Nhưng nếu chúng biết phận mà quay về, không phải đánh giết nhau vẫn
tốt. Ta phụng mệnh Bệ hạ, lấy hòa hiếu làm chủ.
Lý
Đạt tỏ vẻ không bằng lòng:
-Nếu
chúng vẫn không chịu rút thì sao?
Lý
Nhất ôm vai Lý Đạt:
-Nếu
nó không chịu rút, vẫn cương quyết cướp đảo ta, ta và đệ đánh đến cùng, đệ hiểu
chứ.
X X
X
Hứa
Văn cười hơ hớ, chỉ mặt Lý Bật:
-Nói
ta nghe, ngươi vốn là quan đại thần nước Việt, ngươi nói thử coi, quân
binh ta thế này, Lý Nhất sợ không đánh lại nên bàn chuyện lui binh đúng thế
không?
Lý
Bật nói:
-Theo
như Lý Nhất nói, không muốn binh đao, đảo là của người Việt, không ai có thể
đánh chiếm.
Hứa
Văn gào lên:
-Bệ
hạ ta cũng ra thánh chỉ lui quân. Lý Nhất các ngươi cũng cho người nhắn ta lui
quân. Thế là sao? Không. Đuổi chúng đi. Đánh.
Tiểu
Tiểu, Lý Bật bị đẩy xuống hầm thuyền.
Hứa
Văn rung chuông, thổi kèn, báo hiệu cho cả đoàn thuyền ầm ầm tiến vào chân đảo.
Lý
Nhất nhắn tin cho anh em án binh bất động.
Đảo
im lìm.
Hứa
Văn xua quân lên không gặp bất cứ kháng cự nào.
Trong
màn đêm, đội quân của Hứa Văn đông như kiến cỏ, nhung nhúc, nhung nhúc, rùng
rùng chuyển động, chẳng mấy chốc phủ kín trên đảo, những bóng đen di chuyển, mờ
ảo, như những bóng ma.
Hứa
Văn cầm tay Khắc Ngôn:
-Cái
giếng ấy ở phía nào?
Khắc
Ngôn nói:
-Ngài
cho người đi theo thần.
Hứa
Văn hạ lệnh cho dân binh, mang vác thùng gỗ ào ào chạy theo Khắc Ngôn.
Hứa
Văn đứng lại, ra hiệu cho thủy binh dừng chân.
Hứa
Văn không thấy ai là quân lính của Lý Nhất. Hắn chạy tới gặp Khắc Ngôn:
-Ngươi
nói ngươi đã gặp Lý Nhất?
-Dạ
đúng thế.
-Sao
không thấy kháng cự?
Khắc
Ngôn nhìn quanh:
-Thần
cũng thấy thế. Hoặc có thể nhìn thấy sức mạnh của quân ta đã bí mật cho quân
binh rút chạy.
-Rút
chạy?
-Dạ
đúng thế. Quân Lý Nhất chỉ chưa tới trăm người, quân ta cả mấy trăm người,
không rút chạy trước mới lạ, thưa ngài.
-Mày
nói có lý nhưng tao e…
Hứa
Văn cảm thấy chột dạ.
Đảo
im lìm như không có bóng người.
Hay
chúng nó đang giăng bẫy ta?
Hứa
Văn một mặt thúc giục dân binh đào giếng lấy nước lửa, một mặt thúc thủy binh
nhanh chóng áp sát vào trung tâm đảo.
Khắc
Ngôn hớt hải tâu báo:
-Bẩm
ngài… Giếng không có nước lửa.
-Không
có nước lửa? – Hứa Văn lao tới- Tại sao?
Khắc
Ngôn nói:
-Nếu
con nói không nhầm, nước lửa lên xuống theo thủy triều, thủy triều lên, giếng
đầy, thủy triều xuống, nước rút, nay thủy triều lại xuống…
Hứa
Văn lúng túng:
-Đã
thế, đã thế, cho thủy binh cắm trại, chiếm đảo, nếu gặp người Việt, chém.
Tiếng
dạ râm ran.
Lý
Nhất quan sát cho tới khi nhóm thủy binh cuối cùng rời thuyền, chàng nâng cái
vỏ ốc lên thổi một tiếng dài.
Ngay
lập tức, sau những ghềnh đá, sau những mô cát, dưới những hố sâu, các thủy binh
đội cát xông lên. Những ánh kiếm chém xa xả vào quân lính của Hứa Văn.
Tại
trung tâm đảo, Lý Đạt phát lửa.
Hứa
Văn choáng váng thấy muôn vàn những đường lửa lớn cháy rùng rùng, những ngọn
lửa chạy thành từng đường vòng trên đảo, những đường lửa khép lại, vây lấy từng
nhóm lính, chia nhỏ chúng ra, và loang loáng trong ánh sáng của lửa là tiếng hò
hét, là tiếng kiếm sắc chém xa xả, là tiếng cung nỏ, chỉ trong chốc lát, quân
binh của Hứa Văn tán loạn chạy tứ chiếng. Nhưng quân binh của Hứa Văn chạy tới
đâu thì lửa xuất hiện tới đấy, những vòng lửa lớn vây chặt chúng lại, còn bên
ngoài, các thủy binh nước Việt giăng cung nỏ, tỉa từng tên một, chém từng tên
một.
Cả
đảo như chảo lửa.
Lửa
thành lực lượng.
Lửa
như binh khí.
Lửa
như quân binh.
Hứa
Văn và đội quân quay cuồng, giãy dụa, la hét, hoảng loạn trong các vòng lửa.
Lửa
theo từng đường hào chạy ngoằn ngoèo theo chân kẻ cướp đảo.
Lửa
bén vào những sợi dây bùi nhùi quấn cả dưới chân quân lính của Hứa Văn
Lửa
âm ỉ trong những hầm lớn, được che miệng sơ sài như cái bẫy, từng nhóm lính Bắc
triều bị sụp chân, lao đầu xuống từng hố lửa, giãy giụa, la hét đến vang động
cả không gian.
Hứa
Văn hoảng sợ xua quân rút ra thuyền.
Ngay
tức khắc, các thủy binh nhận lệnh của Lý Nhất kéo cả ngàn ngàn vỏ ốc trên biển,
những vỏ ốc chứa nước lửa bùng cháy, giăng kín ngoài biển, chen vào từng ngóc
ngách của các chiến thuyền, thuyền bén lửa cháy bùng bùng, không kịp hoàn hồn
thì mười mấy con thuyền đã bùng lên thành mười mấy ngọn lửa lớn.
Hứa
Văn kéo tàn quân xông vào đảo, vung kiếm áp sát, sống chết đến cùng vì thế cùng
lực tận, đường lui cũng hết.
Tới
lúc này thì dân binh trên đảo rùng rùng đốt đuốc, hàng trăm ngọn đuốc cháy
phừng phừng, cắm thành vòng quanh đảo.
Những
gương mặt thủy binh của quân Lý Nhất bừng bừng sát khí.
Hứa
Văn cùng quân binh của mình bị vây chặt.
Hứa
Văn hét lên một tiếng, tất cả cùng Hứa Văn lại xông ra.
Hai
bên giáp mặt nhau một trận cuối cùng, sống mái.
Hô
hoán lên thế nhưng Hứa Văn lại khôn ngoan ẩn sau lưng những tên lính, lẻn trốn.
Huệ Hương nhìn thấy. Nàng rút kiếm đuổi theo. Lý Đạt nhìn thấy mà không kịp
cản. Chàng vừa chém giặc vừa cố quan sát theo Huệ Hương.
Huệ
Hương băng qua những vòng lửa, khéo léo chạy đường vòng, không mấy khó khăn
nàng đã đuổi kịp Hứa Văn.
Hứa
Văn chưa kịp định thần thì Huệ Hương đã dùng chân đạp thẳng vào người, dí mũi
kiếm vào mặt.
Mấy
thủy binh gần đó xông đến, trói nghiến Hứa Văn, kéo lại trước Lý Nhất.
Quân
Hứa Văn số chết thì nằm la liệt ngang dọc trên cát, số bị thương thì quằn quại
rên rỉ, số còn sống thì co lại một chỗ, buông kiếm, buông cung tên xin hàng.
Hứa
Văn bị trói, ngồi gục dưới chân Lý Nhất. Quanh hắn là quân binh đang ngồi một
đám thảm hại.
Hứa
Văn nhìn ra biển, đội thuyền của hắn vẫn đang cháy rừng rực, sáng cả một vùng.
Bình
minh lên rất nhanh.
Đảo
Nước Lửa không còn màu vàng của cát nữa. Trên đảo là màu đỏ của máu, màu đen
của nhằng nhịt những vết cháy.
Lý
Đạt nói với Lý Nhất, quân ta tử trận bốn mươi anh em, bị thương hai mươi.
Xác
quân thù được kéo hết ra mép biển.
Lý
hất cho sửa nhanh một con thuyền của Hứa Văn, chất lên đấy xác chết và lũ thủy
binh bị thương, lại cấp cho lương thảo, nước uống, thả tự do cho chúng về nước.
Lý
Nhất giữ lại Hứa Văn.
Tiểu
Tiểu và Lý Bật cũng đã thoát được, cướp vội một con thuyền chạy từ trước.
Hứa
Văn ngồi trên cát, mặt mày lem luốc, áo quần cháy sém.
Lý
Nhất bước tới:
-Ta
đã từng cứu ngài lúc bão tố, vẫn tưởng ngài biết được hai chữ chủ quyền. Nay
lại chính ngài đưa quân ra xâm chiếm, tội ngài liệu sống được chăng?
Hứa
Văn quắc mắt lên:
-Cứ
chém.
Lý
Nhất cười:
-Ta
muốn ngài bị chém trước lưỡi kiếm của Hoàng thượng ta. Ta muốn cho các nước lân
bang biết rõ, Hoàng thượng nước ngài đã sai bảo ngài đi cướp đất cương giới
nước Việt như thế nào.
Hứa
Văn im lặng.
31.
Hứa Văn được đưa về kinh thành nước Việt trong thân
phận của kẻ bị bắt, thua trận nhục nhã, được nhốt trong cũi gỗ, suốt ngày cụp
mặt, ai tới gặp hắn cũng khúm núm sợ sệt, một hai xin tha mạng.
Lý
Đạt được Lý Nhất giao phó tấu trình lên Bệ hạ việc Bắc triều gây hấn xâm lược
đảo Núi Lửa do Hứa Văn cầm đầu.
Cùng
lúc Hứa Văn được dẫn giải vào cung thì Hoàng thượng nước Việt cũng nhận được
sắc chỉ của Hoàng đế Bắc triều.
Hoàng
thượng nước Việt chong đèn cả đêm không ngủ.
Canh
năm, Hoàng thượng cho vời quan viết sử Lý Vân, quan Đô thống và cả Lý Đạt
tới.
Lý
Vân nhìn sắc mặt không vui của Hoàng thượng, cất lời:
-Bẩm
Bệ hạ. Nếu theo tấu trình của Quan đại thần Lý Nhất, lại theo lời trình của đô
đốc Lý Đạt và lời khai của Hứa Văn, quân binh ta đã thắng được một cuộc chiến
xâm lược đảo của Bắc triều, quân ta thế mạnh, lực mạnh, uy mạnh, thêm lần nữa
khẳng định cương giới với thiên hạ, được vậy đáng lý lấy làm mừng, quan quân
còn đang đợi Bệ hạ ban thưởng cho quân binh, dân binh của Lý Nhất, sao Bệ hạ
suy tư suốt đêm không ngủ?
Hoàng
thượng nhìn khắp lượt, ôn tồn:
-Ban
thưởng cho thủy binh, dân binh của Lý Nhất ngoài cương giới là phải ban thưởng.
Ta tự hào về trận đánh đó, dù phải xa triều đình, anh em sống chết bên nhau
giữa muôn trùng biển cả, ta ít, địch nhiều mà vẫn thắng, ấy là đáng trọng
thưởng. Chỉ có điều…
Các
quan đại thần nhìn nhau.
Lý
Đạt thưa:
-Bẩm
Bệ hạ, ta không gây hấn. Bắc triều ỷ vào nước lớn, thèm khát nước lửa, đã hàm
hồ xua quân cướp đảo, anh em một lòng giữ đảo, dù thắng nhưng thân xác 40 anh
em thủy binh ngã xuống, điều đó khiến Bệ hạ buồn phiền thương xót?
Hoàng
thượng tư lự:
-Ta
đã ra sắc chỉ cho triều đình chi tiền bạc cho những gia đình có anh em thủy
binh mất mạng vừa qua trong cuộc chiến với quân Bắc triều. Cái chết của anh em
nơi cương giới khiến lòng ta xót thương, đau đớn. Chỉ có điều…
Quan
nội cung nhìn sắc chỉ của Hoàng đế Bắc triều trên tay Hoàng thượng:
-Nếu
thần không sai thì Bệ hạ vừa nhận được sắc chỉ của Hoàng đế Bắc triều quở trách
nước Việt ta?
Hoàng
thượng vân vê ống quyển đựng sắc chỉ của Hoàng đế Bắc triều, đăm chiêu:
-Các
khanh có biết Hoàng đế Bắc triều viết gì cho ta không? Họ vừa như thanh minh
với ta về cuộc binh đao vừa qua, lại vừa có ý dọa dẫm.
Các
quan đại thần nhìn nhau.
-Các
khanh biết không. Bắc triều nói rằng, quân binh của Đô tướng Lý Nhất đã ỷ vào
việc trấn giữ đảo giữa biển khơi, xa triều đình, vắng sự kiểm soát, nên đã xua
quân cướp đoàn thuyền buôn của Bắc triều, giết chết nhiều người, bắt cả quan
đại thần triều đình Bắc triều là Hứa Văn. Quân binh nước Việt ngoài cương giới
đảo giờ thành bọn thảo khấu, đã là thảo khấu thì Bắc triều không dung tha.
Lý
Đạt hét lên tức giận:
-Tráo
trở… Lá mặt lá trái đến thế, xin Bệ hạ không dung thứ.
Quan
viết sử Lý Vân:
-Có
chuyện chi đây? Có chuyện chi mà Hoàng đế Bắc triều có thể biến một cuộc xâm
chiếm đảo trắng trợn giữa ban ngày ban mặt thành như nạn nhân của một vụ cướp
giật do chính quân binh nước Việt tổ chức? Có chuyện chi đây?
Hoàng
thượng nhìn Lý Vân:
-Câu
hỏi của khanh cũng là câu hỏi của ta suốt đêm qua. Hứa Văn cũng thừa nhận đưa
quân vào chiếm đảo để lấy nước lửa cho Bắc triều. Lý Đạt cũng mang tấu của Lý
Nhất vào cho ta kể lại tỉ mỉ cuộc chiến giữ đảo. Nhưng sao Bắc triều lại không
thừa nhận, lại làm ngược tình thế, coi ta như kẻ cướp ngày và lên tiếng không
dung tha? Có ý chi đây? Ta vừa qua đấy, hai bên bang giao hữu hảo, đón tiếp
tưng bừng đấy. Có chuyện chi đây? Các khanh nghĩ xem. Đây đã thành việc hệ
trọng quốc gia rồi. Ta chưa muốn thiết triều về việc cơ mật này. Các khanh là
thân cận ta vời vào bàn trước. Nếu dân tình biết được chuyện dọa dẫm của Bắc
triều, e khó cản được lòng phẫn uất, sinh manh động, hoặc nhỡ lại tin lời xằng
bậy của Hoàng đế Bắc triều nói quân Lý Nhất ta là bọn thảo khấu, e càng bất an.
Các khanh bàn giúp ta việc hệ trọng này, vẫn phải ngăn cản cuộc trừng phạt như
cách Bắc triều dọa dẫm, vẫn phải lấy hòa hiếu làm đầu nhưng cũng không được
quên việc đặt chủ quyền cương giới lên trên hết. Cái khó là ở đó. Ta suốt đêm
không ngủ cũng vì những điều đó.
Thấy
chưa ai nói gì, Hoàng thượng lại lên tiếng:
-Các
khanh thấy gì cứ nói, nghĩ gì cứ nói, tìm được kế sách gì cứ nói, nghĩ ra mưu
lược cũng nói, thấy lòng sợ hãi cũng nói, không vòng vo, không úp mở chi hết.
Lý
Vân lên tiếng:
-Bẩm
Bệ hạ, theo sách sử nhiều triều của các nước, nguyên cớ chiến tranh, bày trận
binh đao có nhiều thứ. Kẻ mạnh thường uy hiếp kẻ yếu. Nước lớn thường xuyên
rình rập, xâm lược nước bé. Đã thủ mưu xâm lược ắt phải nghĩ kế sách xuất binh.
Vô cớ mà đem quân xâm lược nước khác thì sợ thiên hạ chê cười, trăm họ phỉ nhổ,
coi thường. Tìm ra cớ để xua quân xâm lược vốn là kế sách mà không nước nào
không áp dụng. Biến đen thành trắng, tráo trở trong bang giao, gắp lửa bỏ tay
người, vu oan giáo họa để dựng chuyện, gây binh, ấy là trò không hiếm gặp trong
thiên hạ.
Hoàng
thượng gật gù tán thưởng:
-Khanh
nói phải lắm…
Lý
Vân không đắn đo:
-Nếu
âm mưu xua quân chiếm đảo Nước Lửa do Hứa Văn chỉ huy mà thắng lợi, cướp được
đảo, trấn áp được quân binh của Đô tướng Lý Nhất, thi nhau mang vác nước lửa ấy
về quốc gia, phỏng Bắc triều có ra sắc chỉ khiêu khích, dọa dẫm ấy không?
Không. Vì họ đã đạt được mục đích. Chẳng may gặp quân binh ngài Lý Nhất, một
lòng một dạ vì cương giới nước Việt, không quản hiểm nguy, không tiếc mạng
sống, đồng lòng đồng sức giữ đảo, giết giặc, đập tan mưu đồ ác độc của Bắc
triều. Hoàng đế Bắc triều vì thế mà mất thể diện, sợ mất mặt với dân chúng, lại
sợ mất mặt với thiên hạ, mất mặt với các nước lân bang nên vội vàng nghĩ ra kế
sách vừa ăn cướp vừa la làng, tráo trở hèn hạ, tìm cớ xâm chiếm cương giới biển
của nước Việt ta. Nếu thực hiện theo kế của họ là thực hiện được mưu đồ trấn áp
nước Việt ngoài biển khơi, sau là thu lợi nhiều của cải quý giá ở đó, một công
đôi việc, lại được dịp lớn tiếng lu loa với các nước lân bang về lý do xua quân
đánh nước Việt ở cương giới vì nước Việt đang muốn dùng cương giới để trấn áp,
cướp bóc thuyền buôn của Bắc triều và các nước qua lại thông thương trên biển.
Đã tìm được cớ gây hấn, chiếm đảo, lại được tiếng là dẹp yên phản loạn cướp bóc
giữ yên bình ngoài khơi xa, lấy được lòng thiên hạ. Mưu đồ ấy của Bắc triều xin
Bệ hạ chớ bỏ qua.
Quan
Đô thống bày tỏ:
-Bắc
triều lớn mạnh, quân binh, thủy binh đều mạnh hơn ta nhiều lần, nếu cương quyết
chiếm đảo là chiếm được. Cương giới xa cách, quân binh, thủy binh của ta còn
yếu ớt, liệu có kịp ứng cứu? Lại e được dịp này, trên cương giới biển, trên
cương giới đất liền, Bắc triều đồng loạt xua quân liệu nước Việt ta trụ được
bao lâu? Tình thế ngàn cân treo sợi tóc, thắng thua trong chớp mắt, mất còn
trong tấc gang, xin Bệ hạ thận trọng từng câu từng chữ…
Hoàng
thượng nhìn quan Đô thống:
-Ý
khanh là sao? Là ta phải thân chinh nộp phạt? Là ta phải thân chinh lên tiếng
xin nhận tội? Là ta phải…
Quan
Đô thống vội thưa:
-Bẩm
Bệ ha, không phải chuyện đó… Thần nghĩ chi bằng ta bàn với Bắc triều, để hòa
thuận hữu hảo đôi bên, tránh binh đao, tránh căng thẳng, giữ yên bờ cõi, chi
bằng… chi bằng ta dâng tặng Bắc triều đảo Nước Lửa…
Lý
Vân trợn mắt. Lý Đạt chực hét lên. Hoàng thượng nhìn Quan Đô thống hồi lâu:
-Ta
hiểu lòng khanh trong từng ý, từng lời. Khanh nói vậy cũng lo cho sinh mệnh của
cả nước Việt. Đối với thú dữ, để tránh bị cắn xé, có khi phải mất cho nó miếng
thịt làm lành.
Quan
Đô thống cúi đầu:
-Bẩm…
Bệ hạ sáng suốt.
-Không-
Hoàng thượng đập tay xuống bàn- Trong việc này thì không thể. Lo cho nước nhưng
không được hèn. Bảo vệ nước nhưng không nhụt chí. An bình thiên hạ nhưng không
được lui. Hữu hảo phải giữ nhưng không được thỏa hiệp.
Quan
Đô thống tái mét mặt mày:
-Bẩm
Bệ hạ, thần nghĩ sao nói thế, xin Bệ hạ tha tội.
Hoàng
thượng nói:
-Ta
đã nghĩ kỹ. Một mặt kiên trì hòa hiếu với Bắc triều, một mặt trong nước phải
chuẩn bị dấy binh ở khắp cương giới để chuẩn bị chống giặc. Ta sai Lý Vân làm
sứ, cùng theo Hứa Văn sang Bắc triều. Lý Vân giỏi ăn nói, cứ theo ý chỉ của ta
mà ứng xử với Hoàng đế Bắc triều, nhu nhu cương cương, nói thế nào, ứng xử thế
nào không phải đổ lửa vào thêm nhưng cũng không mất khí khái cương trực của
người Việt.
Lý
Vân cúi đầu:
-Bẩm
Bệ hạ, thần tuân chỉ.
-Khanh
phải nói cho Bắc triều biết rằng, nước Việt không tham của ai, không gây hấn
ai, chuộng bình yên, chuộng hòa hiếu, nhưng không chịu bị hà hiếp, bị xâm lược.
-Bẩm
Bệ hạ, thần nghe rõ.
-Khanh
đi lần này nguy nhiều hơn thuận, cân nhắc từng lời từng ý, cố giữ lấy
mình, đi mà có thể không có đường về, ta mong khanh bảo trọng.
Hoàng
thượng nắm lấy tay Lý Vân, lòng muôn phần cảm động và tin tưởng.
Hoàng
thượng lại quay sang quan Đô thống:
-Ngay
lập tức cho đưa Hứa Văn ra khỏi cũi, cho nghỉ ngơi ở cung điện của ta, sai
người phục dịch, sai con hát phục dịch, tiếp đón như quan đại thần. Lại sai nội
cung nhanh chóng chuẩn bị thuyền bè tốt để đưa Hứa Văn và Lý Vân đây về Bắc
triều.
Quan
Đô thống:
-Bẩm
Bệ hạ, thần tuân chỉ.
Hoàng
thượng lại nói:
-Ta
cho xuất hai cặp ngà voi đẹp, một bộ da hổ đẹp, một số vàng bạc châu báu làm
quà tặng Hoàng đế Bắc triều coi như quà bang giao hai nước lâu nay vẫn thế mỗi
khi cử sứ thần đi. Mọi việc cứ vậy, không căng thẳng cũng không khinh xuất.
Quan
Đô thống:
-Bẩm
Bệ hạ, thần tuân chỉ.
Hoàng
thượng quay sang Lý Đạt:
-Khanh
mau mau trở lại cương giới. Cần thêm thuyền ta cho thêm thuyền, cần thủy binh
ta cho mang theo, cần lương thảo, đồ đạc, vũ khí cứ tấu trình, ta hết lòng dốc
sức.
Lý
Đạt cảm kích:
-Bẩm
Bệ hạ, thần y lệnh.
32.
Hoàng
đế Bắc triều lại sai đưa Tiểu Tiểu và Lý Bật vào cung.
Quan
cận thần hỏi:
-Bẩm
Bệ hạ, tính ngày, lúc này sắc chỉ của Bệ hạ đã tới Hoàng thượng nước Việt. Thần
e giờ này Bệ hạ nước Việt đang vội vàng cử sứ thần sang. Ý Bệ hạ ứng xử thế
nào?
Hoàng
đế Bắc triều gật gù:
-Ta
còn xem họ đối xử với Hứa Văn ra sao nữa. Với ta Hứa Văn phạm trọng tội, đã
không nghe lời ta thu quân, ngang nhiên cho đánh chiếm đảo Nước Lửa của nước
Việt để rồi thua trận, làm nhục triều đình, nếu ta không khéo tương kế tựu kế,
ngụy tạo hiện trường, thay đổi nhanh tình thế, tránh được tiếng xấu lại có cớ
để trừng phạt nước Việt, thử hỏi tình hình sẽ ra sao?
Quan
cận thần cúi đầu:
-Bệ
hạ thực anh minh.
-Danh
chính ngôn thuận, nước Việt bé nhỏ cũng là một nước, thế cùng mới phải ra tay,
ra tay phải có cớ để trăm họ không oán thán, các nước lân bang ủng hộ, việc nhỏ
ấy mà các khanh không hiểu. Cứ như Hứa Văn, thấy miếng ngon thì giật lấy, không
biết nhìn trước ngó sau, thiên hạ sẽ khinh bỉ, quay mặt, ta biết ăn nói thế
nào? Ta thèm lấy đảo cương giới nước Việt từ rất lâu, lấy được, ta trấn áp
nước Việt từ bên ngoài, lại làm chủ biển cả, thuyền bè giao thương các nước qua
lại buộc phải nhún nhường, lại khai thác nhiều thứ quý giá. Nhưng không phải cứ
muốn mà được, cứ muốn là cướp. Tội Hứa Văn rất lớn, phải phạt. Nhưng công Hứa
Văn cũng rất lớn, phải thưởng…
Quan
cận thần ngạc nhiên:
-Bẩm
Bệ hạ…
-Tội
của Hứa Văn là chống lệnh ta, đáng ra phải chém đầu. Công của Hứa Văn là liều
mạng gây hấn làm ta có cái cớ chắc chắn để thực hiện việc chiếm đảo của nước
Việt mà không bị mang tiếng là xâm lược, cướp mà được tiếng là trấn an bình yên
biển đảo cho các nước lân bang, dẹp loạn thảo khấu nước Việt, công đó đáng được
thưởng.
-Bẩm
Bệ ha, không ai so được tài trí của Bệ hạ.
-Xuất
binh lần này phải thắng. Không thắng không về, không cướp được đảo Nước Lửa
không về, giữ thể diện cho Bắc triều ta.
Quan
cận thần hỏi:
-Bẩm
Bệ hạ, chọn ai chỉ huy trận xuất binh này?
Hoàng
đế cả cười rồi phẩy tay:
-Cho
hai ngươi vào đây.
Tiểu
Tiểu và Lý Bật bước vào. Hoàng đế Bắc triều ban cho ngồi, ban cho trà uống, rồi
nhìn quan cận thần nói:
-Khanh
vừa hỏi ta sẽ cử ai làm chỉ huy trận xuất binh trừng phạt nước Việt tại đảo
Nước Lửa, ta nghĩ, không ai hay hơn Lý Bật đây.
Lý
Bật ngơ ngác:
-Bẩm
Bệ hạ…
Hoàng
đế nói:
-Ngươi
đã tình nguyện quay lưng với nước Việt ngươi để sang Bắc triều, nay ta phong
cho ngươi làm quan đại thần, chỉ huy trận xuất binh trừng phạt nước Việt, chiếm
đảo nước Việt, chiếm xong ta cho người làm quan đại thần Chúa đảo, ngươi không
muốn sao?
Lý
Bật run run:
-Bẩm
Bệ hạ, ân sủng của Bệ hạ quá lớn, làm thần không dám tin.
Hoàng
đế cười:
-Từ
một quan đại thần nước Việt, thành kẻ tội đồ nước Việt, lại được Bắc triều
phong làm quan đại thần, lại được cầm quân xuất binh, lịch sử Bắc triều ta e
chưa có trường hợp nào như thế.
Quan
cận thần tiếp lời:
-Bẩm
Bệ hạ, lòng Bệ hạ bao dung như trời biển…
Hoàng
đế lại nói:
-Tiểu
Tiểu cháu ta sẽ được phong làm đô đốc thủy binh trận chiến này. Ta cần cháu vì
cháu đã thông đường đi lối lại trên đảo, sẽ giúp nhiều cho binh sỹ… Nhất nhất
mọi việc, cháu phải nghe theo lệnh của Lý Bật.
Tiểu
Tiểu:
-Cảm
tạ Bệ hạ.
Hoàng
đế Bắc triều cười lớn:
-Được
rồi, ta cho các ngươi lui.
Đợi
cho Tiểu Tiểu và Lý Bật ra, quan cận thần hỏi:
-Bẩm
Bệ hạ, việc cử Lý Bật làm chỉ huy trận xuất binh này, thần e…
Hoàng
đế Bắc triều nheo mắt nhìn quan cận thần:
-Khanh
ở cạnh ta mà ít hiểu ý ta là thế nào?
-Bẩm
Bệ hạ, việc này…
-Lý
Bật là quan đại thần nước Việt, hắn không phải không có tài, nhưng vì ham danh
vọng tiền tài mà chạy sang ta, ta không sử dụng, sau này còn ai bỏ nước mà sang
với ta?
-Bẩm
Bệ hạ, thần hiểu.
-Ta
cho xuất binh chiếm đảo nước Việt, ngoài miệng thì cho lu loa rằng để
trừng phạt người Việt đã dám cướp bóc thuyền buôn, giết chết dân binh, thủy
binh của ta, nhưng thực sự là đi cướp cương giới nước Việt. Việc ấy giấu mấy
cũng hở. Chi bằng ta cho chính Lý Bật chỉ huy, thắng thì ta có thêm cương giới
đảo, nhỡ thua thì đổ vấy cho Lý Bật, do quan nước Việt dấy binh tạo phản. Làm
thế hẳn không hay?
Quan
cận thần cúi đầu:
-Bệ
hạ anh minh. Bệ hạ anh minh.
X X
X
Hứa
Văn tưởng bị chém đầu lại bỗng dưng được ở trong cung điện, chốn lầu son sang
trọng, được người hầu kẻ hạ, cơm rượu dâng lên tận miệng, ca nữ đàn hát thâu
đêm, gái đẹp kề tay áp ngực thì lấy làm phởn chí. Hắn lại biết sắp được cho về
nước. Hắn lại biết còn có sứ thần đưa hắn về tận nơi. Hắn lại biết Hoàng đế Bắc
triều có sắc chỉ quở trách Hoàng thượng nước Việt đã gây chiến. Mọi việc thay
đổi như lật bàn tay. Đêm đang tối rồi lại sáng. Đời đang nhục lại hóa vinh. Kẻ
tội đồ lại thành chính khách. Hứa Văn cả cười, tha hồ ăn chơi, tha hồ xài xể
gái đẹp, được mấy ngày sống như vương như tướng.
Ngày
lên thuyền về Bắc triều, Hứa Văn đứng ở mũi thuyền, nhìn vào Kinh thành nước
Việt, quay sang nói với Lý Vân:
-Thẹn
cho nước Việt ngươi, nước yếu thì hèn, thế hèn nên chịu nhục.
Rồi
cười ha hả.
Lý
Vân không nói gì, đưa sáo lên thổi.
33.
Gió
biển thổi như xát muối vào mặt Lý Thắm, mà cũng không biết do gió biển mang hơi
muối mặn chát hay chính nước mắt của nàng đang nhòa ướt trên má. Nàng ngồi thu
lu, đầu cúi, tóc xõa, im lìm như bụi rau muống biển. Trước mặt nàng là 40 ngôi
mộ cát chôn cất thân xác 40 thủy binh đêm qua vừa ngã xuống trước mũi kiếm của
giặc. Theo lệnh Lý Nhất, tất cả xác anh em thủy binh đều mang từ đảo Núi Lửa về
đảo Vú Cát chôn cất. Khu huyệt mộ được chọn đặt ngay trên đỉnh Vú Cát, nơi cát
bằng phẳng, cao ráo, và ở đây có thể phóng tầm mắt nhìn khắp biển cả. Lý Thắm
ngồi trước, sau nàng là toàn bộ dân binh, thủy binh, các cô gái trẻ. Trong
nắng, trong gió cát, tiếng khóc của họ được gió mang ra biển, được sóng biển xô
đẩy về tới đất liền, là nàng hy vọng thế, để đất liền biết được đêm qua, máu đã
đổ trên đảo xa cương giới.
Lý
Thắm vẫn giữ trên tay mình vốc cát đưa từ đảo Nước Lửa sang, vốc cát thấm đỏ
máu của anh em thủy binh. Nàng đặt vốc cát thấm máu ấy xuống trên một mô đất
cao, thắp hương. Những nén hương đưa từ đất liền ra từ tháng trước, tưởng
là để phục vụ cho những lần cúng bái thổ thần, nay được dùng hết để thắp hương
tiễn biệt người đã khuất.
Những
gương mặt của thủy binh, dân binh, của các cô gái khô hanh trong gió cát, đăm
đăm nhìn xuống bốn mươi ngôi mộ cát, không ai nói gì hết, chỉ có tiếng khóc âm
ỉ chảy dài, vang âm u trong nỗi đau đớn xé ruột.
Đô
tướng Lý Nhất đứng trầm ngâm, mắt ráo hoảnh.
Chàng
biết đây chưa phải là trận đánh cuối cùng.
Chàng
biết rồi trên từng hòn đảo, sẽ còn nữa thân xác của anh em phải ngã xuống vì
cương giới. Rồi những trận đánh tới, đến lượt chàng cũng có thể chết. Nhưng
điều đó không quan trọng bằng những hòn đảo này vẫn mãi thuộc về nước Việt.
Huệ
Hương nhìn đăm đăm vào bốn mươi ngôi mộ, bốn mươi ngôi mộ vun cao trong cát,
nằm im lìm trong hương khói. Nàng đã trải qua một cuộc binh đao và giờ thì nàng
hiểu, vì sao nàng cần phải vững vàng, vì sao nàng cần phải sẵn sàng cùng các
chị em cầm kiếm, cầm cung nỏ để khi cần thì thay thế anh em binh sĩ.
Đất
đai tiên tổ ở đâu cũng là đất đai tiên tổ.
Đất
đai tiên tổ ở đâu cũng giống nhau, cũng thấm máu mồ hôi và nước mắt của con
cháu Việt, dù là hạt phù sa đỏ đồng bằng, bụi đất bạc màu trên núi cao hay bùn
lầy sú vẹt ven biển và cát vàng ở đảo xa, ở đâu cũng linh thiêng, cũng mang đậm
dấu chân, hồn vía của nhiều thế hệ Việt đã giữ gìn, đã bảo vệ, đã sống và
chết truyền đời như thế.
Đất
đai tiên tổ là quê hương bản quán, là nơi cha mẹ đào đất chôn nhau cắt rốn của
con cái mình, là nơi để đào bới trồng cây lúa cây khoai, là hơi thở đẫm mồ hôi
của ông cha, những giọt mồ hôi ướt đẫm trong nắng rát, trong mưa bão, trong đói
khát, trong sự cần mẫn để gieo trồng và thu hái, để nuôi con nuôi cái, hà hơi
tiếp sức cho nhiều thế hệ người Việt lớn lên, sinh tồn, bám trụ.
Đất
đai tiên tổ làm chứng cho biết bao lớp lớp cháu con, lớn dậy và trưởng thành,
quen hơi bén tiếng, yêu nhau, thành vợ thành chồng, sinh con đẻ cái, làm nhà
làm cửa, sống trên đất, chết trong đất, niềm vui và nỗi buồn, tất cả đều không
rời đất, không xa đất, tất cả quần tụ và quyến luyến với đất đai quê hương,
làng xóm, cả nước mắt nụ cười, cả khao khát và chờ đợi, tất cả đều có đất
làm chứng, có đất nâng đỡ, có đất dìu dắt, trong đất là xương cốt của tổ tiên,
xương cốt người Việt làm ra đất đai tiên tổ người Việt.
Đất
đai tiên tổ là nơi trời đã định, phận đã liệu, từ cương giới đất liền đến nơi
biển cả, không xâm chiếm của ai, không giành giật của ai, một hạt bụi cũng là
của người Việt, một cây cỏ cũng thuộc về người Việt, đời đời kiếp kiếp như thế,
ai chiếm đoạt thì bị trừng phạt, ai phản bội thì phạm trọng tội, trong đất có
hồn vía cha ông, có sức mạnh nước non, có lời thề truyền đời giữ đất của các
bậc tiền bối, không ai được phép quay lưng trở mặt, lấy sức mà giữ gìn, lấy cả
máu ra mà giữ gìn, không thể khác.
Đất
đai tiên tổ là nơi chia sẻ, là nơi đón nhận, là nơi ủ ấm những thân xác con cái
người Việt đã bỏ mạng vì các cuộc chiến giữ đất giữ nước, sống thì cùng đất làm
nên hạt lúa củ khoai, cùng đất rảo bước trên những nẻo đường, cùng đất cười đùa
khi hạnh phúc, vục mặt vào đất khi khổ đau, bấu vào đất khi chân yếu tay mềm,
tựa vào đất khi trời không yên, biển không lặng, chúi mặt vào đất khi tủi thân,
khi buồn bã và cô độc, nằm yên ả trong đất khi nhắm mắt xuôi tay. Sống thì bảo
vệ đất đai, chết thì nằm trong đất đai, người Việt mãi là như thế, yêu đất đai
và thề chết vì đất đai tiên tổ.
Cuộc
chiến chắc chắn chưa dừng lại. Đảo xa, biển rộng, người ít giặc nhiều, rồi ai
còn ai mất? Sống hay chết ở đây cũng chỉ để cho thiên hạ biết một điều, đảo này
là của người Việt, cương giới này là của người Việt, còn một trăm người cũng
đứng lên bảo vệ, còn mười người cũng đứng lên bảo vệ, còn một người cũng đứng
lên bảo vệ, không còn ai thì thân xác chôn vùi dưới đảo cũng là nhân chứng,
cũng là mốc giới, cũng vẹn nguyên một lời thề giữ đảo.
Nhưng
tiếc. Đô tướng Lý Nhất nhìn từng gương mặt các chàng trai,
gương mặt các cô gái trẻ đang ngời ngời lên trong nắng, sung sức, ánh mắt long
lanh, đẹp quá, những gương mặt người Việt đẹp như thiên thần. Vì sao họ không
được yên ổn để sống, để yêu nhau, để sinh con đẻ cái, để làm chồng làm vợ? Vì
sao họ lại phải chết trẻ, chết trinh nguyên trong trắng vào cái tuổi như quả
trên cây mới chín. Biết là họ chết vì bảo vệ đất đai tiên tổ, nhưng tiếc, quặn
lòng vì đau đớn, sôi ruột vì căm thù giặc giã, bàn tay Lý Nhất nắm lấy thanh
kiếm mà ước chi có thêm ngàn sức mạnh để có thể quét sạch giặc giã, dồn đuổi
chúng tới chân trời, cho cương giới mãi trường tồn yên ổn, không còn thấy cảnh
chém giết man rợ, để các trai tráng và thiếu nữ chỉ biết chăm chỉ làm ăn, lo
toan cuộc sống, biến đảo thành ấp thành làng, ấm êm hạnh phúc.
Lý
Nhất biết lần này Lý Đạt ra, chắc chắn sẽ được Hoàng thượng bổ sung thuyền
chiến, bổ sung thủy binh. Đảo Nước Lửa sẽ còn phải tiếp tục giao tranh. Bắc
triều là nước lớn, không dễ buông tay sau trận thua đau như vậy.
Sau
buổi lễ chôn cất anh em, Lý Nhất đưa toàn bộ quân binh, dân binh về đảo Nước
Lửa để bắt đầu việc củng cố hầm hào công sự.
Đảo
Vú Cát chỉ còn Lý Thắm và mấy anh em bị thương và một số cô gái ốm yếu.
Số
còn lại cùng Lý Nhất lên thuyền, giong buồm về đảo Nước Lửa.
X X
X
Hoàng
đế Bắc triều cho vời Lý Vân vào triều.
Nhìn
thấy Lý Vân, thân hình gầy guộc, mặt mày hốc hác, hoàng thượng Bắc triều cả
cười:
-Người
Việt thiếu ăn hay sao mà đến như người đi sứ cũng gầy gò tòng teo như vậy. Ta
nhìn ngươi, thấy lòng thương xót.
Lý
Vân đáp:
-Thưa
Bệ hạ, thần lấy làm kiêu hãnh khi vừa qua đây đã được Bệ hạ cho gặp,
đường xa, biển lớn, quả là thần không được khỏe. Nhưng trên đường vào cung, dân
tình hai bên đường thật đông đúc, nhưng thần không thấy ai béo tốt. Bệ hạ thấy
thần gầy yếu đã cảm kích vậy, chắc cả ngàn, cả vạn dân binh Bắc triều gầy gò,
thiếu thốn, hẳn Bệ hạ khóc suốt đời mình cũng không hết thương xót.
Bệ
hạ cố cười:
-Khanh
đối đáp nhanh nhẹn lắm, ta lấy làm hài lòng. Khanh chuyển lời của ta đến Hoàng
thượng nước Việt, đã thả Hứa Văn, lại còn cử cả sứ thần thân chinh đưa Hứa Văn
về nước, quả là chu đáo.
-Thưa
Bệ hạ, thần sẽ chuyển lời.
-Khanh
nói ta nghe, có đúng là đói kém thì sinh đạo tặc, sinh trò thảo khấu, cướp bóc?
-Thưa
Bệ hạ, lẽ đời vẫn vậy.
-Thế
hóa ra vụ việc quân binh đảo Nước Lửa chặn thuyền buôn bán của ta, lại cho
người cướp phá, giết người của ta, tội ác man rợ, chẳng lẽ nước Việt của khanh
đã tới mức thế cùng miếng ăn phải tổ chức quân đội đi cướp bóc?
Lý
Vân cả cười:
-Bệ
hạ nói hay lắm. Thần từng nghe, Bệ hạ là người anh minh, sử sách thông thuộc,
tấm lòng bao dung khôn tả. Nhưng Bệ hạ lại quá cao siêu, ở xa đời, ở xa thế
thời. Nên e vì thế mà đôi khi ở cao quá lại dễ nghe lời xằng bậy, ngồi
kín quá dễ nghe trò xỏ xiên, bao dung quá dễ chứa chấp kẻ dại khờ ngu xuẩn…
-Khanh
nói vậy có ý gì?
-Nước
Việt nhỏ bé, người ít, thuyền bè ít, quân binh thủy binh đâu dám so với Bắc
triều. Nhìn lại sử sách, toàn thấy Bắc triều qua nước Việt xâm lấn, chưa lần
nào ghi người Việt qua xâm lấn Bắc triều. Lại nói chuyện cướp bóc, thảo khấu,
nếu là thuyền buôm của Bắc triều, biển rộng, đường rộng, cứ thế đi, sao lại xua
quân xua người lên đảo Nước Lửa? Lại nghe nói trên đảo Nước Lửa có thứ nước
lửa, quân binh Bắc triều mang cả trăm thùng gỗ, ngàn thùng gỗ lên đấy những
mong hút nước lửa mang về? Chứng cớ rành rành, lời khai của đại thần Hứa Văn
ràng rành, sao Bệ hạ lại có thể nói quân binh nước Việt chặn thuyền cướp phá?
-Khanh
nghe ai lại dám chống lại lập luận của ta?
-Bẩm
Bệ hạ, Bệ hạ tin đại thần Hứa Văn hay tin thần?
-Việc
này…
-Thần
dám hỏi vậy vì nước Việt đang cưu mang một thủy binh của Bệ hạ, người này ở
trên con thuyền mang chiếu chỉ của Bệ hạ yêu cầu đoàn thuyền của Hứa Văn lui
binh, chưa đánh chiếm đảo Nước Lửa vội. Thế tức là đoàn thuyền buôn ấy hóa ra
không phải thuyền buôn. Đoàn thuyền buôn ấy lại xuất bến theo sắc chỉ Bệ hạ là
để cướp đảo người Việt. Có thể Bệ hạ chưa thấy việc xuất binh là lợi nên ra sắc
chỉ lui binh, nhưng Hứa Văn vì tham lợi riêng, đã chém giết người Bệ hạ trên
thuyền, đơn phương xâm chiếm đảo Nước Lửa. Bệ hạ cử người mang sắc chỉ đi mà họ
sống chết thế nào Bệ hạ cũng không rành, lại để Hứa Văn bất tôn thánh chỉ, tự ý
làm càn, giờ lại theo lời quân sĩ dựng chuyện người Việt cướp bóc, uy nghiêm
như Bệ hạ, chẳng lẽ không biết đâu trái, đâu phải, đâu chính, đâu tà?
Hoàng
thượng Bắc triều cả giận:
-Ta
sẽ lấy đầu ngươi. Làm gì có chuyện chiếu chỉ của ta cho đoàn thuyền của Hứa văn
lui quân. Làm gì có chuyện ta ra sắc chỉ đưa quân sỹ đi cướp đảo nước Việt.
Ngươi chỉ là sứ thần, lại dám vu oan giáo họa, lại dám tung lời xách mé, làm
nhục triều đình, làm nhục Hoàng đế Bắc triều, ngươi đáng tội chết ba lần không
xứng.
Lý
Vân im lặng, từ từ đưa ra tờ chiếu chỉ, cung kính:
-Xin
Bệ hạ ngự lãm.
Chỉ
liếc mắt, hoàng thượng Bắc triều đã biết vì sao Lý Vân lại cứng cỏi đến thế.
Hoàng
thượng cả cười:
-Khá
khen ngươi xứng với sứ thần nước Việt, lúc nào cũng cứng cỏi, không coi cái
chết làm sợ, nói là nói, không vụ lợi cũng không né tránh, ta lấy làm cảm kích.
Ta sẽ ban thưởng.
Lý
Vân nói:
-Thưa
Bệ hạ. Nói thật, đưa ra chứng cứ thật để mong được ban thưởng, e không phải cốt
cách quân tử.
Hoàng
thượng hỏi:
-Vậy
ngươi muốn gì?
Lý
Vân nói:
-Thưa
Bệ hạ, cái thần muốn thì đã có rồi, đó là cương giới đảo của nước Việt đã ghi
dấu trong bản đồ nước Việt, nhiều triều Hoàng đế Bắc triều cũng đã tự xác tín,
vậy nên, để êm ấm bang giao, từ nay khỏi bàn đến chuyện tranh chấp, tránh hiểu
lầm, tránh binh đao, những mong Bệ hạ lần nữa xác tín chủ quyền cương giới cho
người Việt.
Hoàng
thượng lúng túng nhưng làm bộ nổi cáu:
-Ngươi
chỉ là sứ thần, đâu ngang bậc đế vương mà đòi hỏi những điều như vậy?
Lý
Vân nói:
-Thưa
Bệ hạ, những đòi hỏi các nước lân bang phải công nhận cương giới của nước Việt
thì không chỉ Hoàng thượng của nước Việt mới có quyền nói, mà mỗi thần dân nước
Việt đều có quyền nói, đó là lẽ thường thưa Bệ hạ.
Hoàng
thượng nhìn Lý Vân hồi lâu:
-Ta
có nghe, nhà ngươi xuất thân từ nho sĩ?
-Thưa
Bệ hạ, đúng thế.
-Nho
sĩ thì chỉ giỏi chữ, lấy chữ làm vui thú, ta có thể ban cho ngươi đủ tiền bạc,
đủ sung sướng để ngươi sống, cả đời vui ca, ngâm nga chữ nghĩa, việc cương giới
ngươi đừng nên bận tâm…
-Thưa
Bệ hạ, chữ phải viết ra từ ruột gan mình, từ máu thịt mình, từ lòng tự trọng
của mình, từ tình yêu đất nước tổ tiên mình, nếu vì cơ hội để nhận sự no
đủ, sung sướng rồi dùng chữ mà ca ngợi kẻ vong ân bội nghĩa, ca ngợi kẻ bỏ bê
việc nước, phản bội tổ tiên, thì e chữ ấy là chữ của kẻ mang thân phận như lũ
cẩu, suốt đời chỉ biết cắm mõm vào thức ăn bố thí để sủa lên, tru lên, rặn
thành những lời gian trá, bóp méo sự thật, xưng tụng và bợ đỡ cho lũ quan quyền
ăn trên ngồi tróc, bán nước vong thân, những kẻ viết ra loại chữ ấy đất Việt
không dung thân thưa Bệ hạ.
Hoàng
thượng im lặng, ngẫm nghĩ rồi lại nói:
-Người
tài cao, trí rộng, nếu ngươi chịu phụng sự cho Bắc triều, lòng ta đang thực sự
mến mộ và xin được chiêu hiền đãi sĩ. Nước Việt bé nhỏ, dân trí thấp kém, ngươi
ở đó phụng sự phỏng làm thui chột trí lực, phí hoài năng khiếu?
Lý
Vân đứng lên:
-Thưa
Bệ hạ, cây có đất mới bén rễ, người có tổ tiên mới trưởng thành, chữ có cốt
cách mới nên vần điệu, thần là con dân nước Việt, chữ của thần, trí của thần là
nhờ nước Việt mà nên, không thể mang chữ đi buôn bán thụ hưởng cho riêng mình.
Người vô đạo thì thất đức, kẻ vong ơn thì trí hèn, thần không phải hạng đó.
Hoàng
thượng lớn tiếng:
-Ta
có quyền nhốt ngươi trong ngục tối, ta có quyền định đoạt mạng sống của ngươi
nếu ngươi chống ta.
Lý
Vân nhã nhặn:
-Thưa
Bệ hạ, Bệ hạ nói đúng lắm. Thần chỉ là kẻ nho sĩ, chân yếu tay mềm, cầm cây
kiếm cây đao còn chưa vững, mang thân đi sứ, mạng sống nằm trong tay Bệ hạ. Bệ
hạ có thể chém thần, có thể giam cầm, nhưng chỉ xin Bệ hạ nhớ cho rõ ràng, thần
qua đây là mang ý chỉ của Hoàng thượng nước Việt, cũng là lời của người dân
Việt, cương giới nước Việt là của nước Việt, điều đó là không thay đổi, điều đó
là không ai cưỡng đoạt được. Người Việt yêu chuộng hòa hiếu nhưng khi cần thì
dù đầu rơi máu đổ cũng đổ ở cương giới để giữ đất đai tiên tổ. Nếu các nước lân
bang cậy thế, cậy lực mà cướp đoạt đất đai người Việt thì đời này, đời sau,
kiếp sau, người Việt cũng thề lấy lại. Thần đã nói hết. Mạng thần đây, Bệ hạ
nếu thả thì thần sống, nếu chém thì thần chết, không còn gì phải ân hận.
Hoàng
thượng Bắc triều phẩy tay.
Lý
Vân lui ra.
Quan
nội cung bước lại:
-Bẩm
Bệ hạ…
Hoàng
thượng quắc mắt lên:
-Gọi
Hứa Văn cho ta.
>> xem tiếp phần 8